GIỚI THIỆU LUẬT TRỢ GIÚP PHÁP LÝ NĂM 2017
Luật TGPL được bố cục thành 8 chương, 48 điều (giảm 04 Điều):
- Chương I: Những quy định chung gồm 6 điều (từ Điều 1 đến Điều 6) gồm các quy định về phạm vi điều chỉnh, khái niệm TGPL, nguyên tắc hoạt động TGPL, chính sách của Nhà nước về TGPL, nguồn tài chính cho công tác TGPL, các hành vi bị nghiêm cấm.
- Chương II: Người được TGPL, quyền và nghĩa vụ của người được TGPL gồm 3 điều (từ Điều 7 đến Điều 9) gồm các quy định diện người được TGPL, quyền, nghĩa vụ của người được TGPL.
- Chương III: Tổ chức thực hiện TGPL, quyền và nghĩa vụ của tổ chức thực hiện TGPL gồm 7 điều (từ Điều 10 đến Điều 16) quy định về tổ chức thực hiện TGPL, quyền và nghĩa vụ của tổ chức thực hiện TGPL, Trung tâm TGPL nhà nước, hợp đồng thực hiện TGPL, đăng ký tham gia TGPL, chấm dứt thực hiện TGPL của tổ chức tham gia TGPL.
- Chương IV: Người thực hiện TGPL, quyền và nghĩa vụ của người thực hiện TGPL gồm 9 điều (từ Điều 17 đến Điều 25) quy định về người thực hiện TGPL, quyền và nghĩa vụ của người thực hiện TGPL, tiêu chuẩn Trợ giúp viên pháp lý, tập sự TGPL, bổ nhiệm, cấp thẻ, miễn nhiệm và thu hồi thẻ Trợ giúp viên pháp lý, cấp lại thẻ Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên TGPL, các trường hợp không được tiếp tục thực hiện hoặc từ chối thực hiện TGPL.
- Chương V: Phạm vi, lĩnh vực, hình thức và hoạt động TGPL gồm 14 điều (từ Điều 26 đến Điều 39) quy định về phạm vi thực hiện TGPL, lĩnh vực, hình thức TGPL, địa điểm tiếp người được TGPL, yêu cầu TGPL, thụ lý vụ việc TGPL, tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng, phối hợp xác minh vụ việc TGPL, chuyển yêu cầu TGPL, kiến nghị trong hoạt động TGPL, trường hợp không tiếp tục thực hiện vụ việc TGPL, lập; lưu trữ hồ sơ vụ việc.
- Chương VI: Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức đối với hoạt động TGPL gồm 5 điều (từ Điều 40 đến Điều 44) quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về TGPL, trách nhiệm của các cơ quan liên quan đến hoạt động TGPL trong tố tụng và các cơ quan có liên quan, của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức chủ quản của tổ chức tư vấn pháp luật.
- Chương VII: Giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp gồm 02 điều (Điều 45 và Điều 46) quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp.
- Chương VIII: Điều khoản thi hành gồm 02 điều (Điều 47 và Điều 48) quy định về chuyển tiếp và hiệu lực thi hành.
NHỮNG ĐIỂM MỚI CƠ BẢN CỦA LUẬT
1. Luật đã có sự phân biệt TGPL và dịch vụ pháp lý thiện nguyện của các tổ chức xã hội
Hoạt động TGPL cần tuân theo quy định của Luật này về đối tượng TGPL, tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện, hình thức, lĩnh vực TGPL… Các tổ chức, cá nhân thực hiện TGPL cần bảo đảm đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện nhằm bảo đảm chất lượng dịch vụ TGPL. Việc tham gia TGPL của các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật được thực hiện thông qua cơ chế ký hợp đồng thực hiện TGPL và đăng ký tham gia TGPL. Việc cung cấp dịch vụ pháp lý thiện nguyện của xã hội (theo Luật Luật sư, Nghị định số 77/2008/NĐ-CP về tư vấn pháp luật) không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này.
2. Mở rộng diện người được TGPL
Việc xác định người được TGPL dựa trên nguyên tắc kế thừa những đối tượng hiện đang được TGPL, phù hợp với các chính sách đặc thù, điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam. So với Luật TGPL năm 2006, diện người được TGPL đã được mở rộng (từ 06 diện người lên 14 diện người). Theo đó, 02 đối tượng được kế thừa hoàn toàn từ Luật TGPL năm 2006 là người thuộc hộ nghèo và người có công với cách mạng; 02 đối tượng được kế thừa và mở rộng là trẻ em không nơi nương tựa thành tất cả trẻ em, người dân tộc thiểu số "thường trú" thành "cư trú" tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (cư trú sẽ rộng hơn thường trú vì cư trú bao gồm thường trú và tạm trú).
Luật bổ sung 02 nhóm là người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (hiện thuộc trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa theo Bộ luật Tố tụng hình sự) và người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo để bảo đảm chính sách hình sự đối với các nhóm đối tượng này. Luật có quy định mới trong việc áp dụng điều kiện có khó khăn về tài chính đối với 08 nhóm người như tại khoản 7 Điều 7 để cung cấp cho những người thực sự có nhu cầu nhưng không có khả năng tài chính để thuê dịch vụ pháp lý. Chính phủ sẽ quy định chi tiết về điều kiện có khó khăn về tài chính áp dụng với các nhóm người này phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội theo từng thời kỳ phát triển của đất nước.
Có thể nói, với việc triển khai hiệu quả Luật TGPL, đáp ứng được đầy đủ, chất lượng nhu cầu TGPL của các diện người được quy định trong Luật cũng sẽ góp phần thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
3. Bổ sung nguồn tài chính cho công tác TGPL
Luật TGPL quy định nguồn tài chính cho công tác TGPL bao gồm nguồn ngân sách nhà nước, đóng góp, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước, nguồn hợp pháp khác. Nhà nước bố trí kinh phí trong dự toán ngân sách hằng năm của cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về TGPL theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Đối với các tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách, Luật quy định việc ưu tiên bố trí ngân sách từ số bổ sung cân đối ngân sách nhà nước để hỗ trợ thực hiện vụ việc TGPL phức tạp, điển hình. Đây là điểm mới quan trọng, khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm cho người thuộc diện được TGPL được giúp đỡ pháp lý khi họ có các vụ việc TGPL cụ thể, đồng thời nhằm khắc phục phục phần nào tình trạng bỏ sót nhu cầu TGPL của người dân tại các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách.
4. Nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL
Để thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL, Luật TGPL quy định chuẩn hóa đội ngũ người thực hiện TGPL, quy định tiêu chuẩn đối với tổ chức tham gia TGPL theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa:
- Về tổ chức tham gia TGPL: Để khắc phục tình trạng tham gia TGPL một cách hình thức, không hiệu quả của các tổ chức xã hội, Luật TGPL quy định các điều kiện cụ thể để tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL. Đặc biệt, để ký hợp đồng với các tổ chức có điều kiện tốt nhất cung cấp dịch vụ TGPL Sở Tư pháp sẽ tổ chức lựa chọn theo một quy trình chặt chẽ phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương. Hơn nữa, Luật có cơ chế trả thù lao cho các tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL nhằm khuyến khích sự tham gia TGPL có chất lượng hơn của các tổ chức này.
- Về người thực hiện TGPL: Luật đã chuẩn hóa, nâng cao tiêu chuẩn Trợ giúp viên pháp lý tương đương với luật sư; bổ sung tiêu chuẩn phải qua tập sự nghề (tập sự TGPL hoặc tập sự hành nghề luật sư) để Trợ giúp viên pháp lý có thời gian tập sự vận dụng kiến thức, kỹ năng trước khi được cung cấp và chịu trách nhiệm về về dịch vụ TGPL. Chế định cộng tác viên TGPL được kế thừa trên cơ sở có chọn lọc những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ về pháp luật, có kinh nghiệm và có thể chủ động về thời gian để bảo đảm tham gia công tác TGPL một cách thực chất, có hiệu quả tại vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn.
Như vậy, không phải bất kỳ tổ chức, cá nhân nào có nguyện vọng đều được cung cấp dịch vụ TGPL như Luật năm 2006. Theo Luật TGPL năm 2017, để được cung cấp dịch vụ TGPL, các tổ chức, cá nhân cần đáp ứng yêu cầu, điều kiện tối thiểu do Luật định để bảo đảm chất lượng dịch vụ họ cung cấp cho người được TGPL. Trên cơ sở điều kiện thực tế của địa phương và các quy định trong Luật, Sở Tư pháp và Trung tâm TGPL nhà nước sẽ lựa chọn trong số các tổ chức, cá nhân có nguyện vọng thực hiện TGPL để ký hợp đồng thực hiện TGPL. Với những quy định chặt chẽ về điều kiện để các tổ chức, cá nhân trực tiếp thực hiện TGPL, Nhà nước đã thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng cho người nghèo, đối tượng chính sách và các đối yếu thế khác trong xã hội.
5. Nâng cao vai trò của Sở Tư pháp
Vai trò của Sở Tư pháp trong việc tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về TGPL ở địa phương được nâng lên thông qua việc quản lý, đánh giá hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước và nắm bắt yêu cầu TGPL tại địa phương lựa chọn các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật có nguyện vọng, có điều kiện tốt nhất, quyết định việc ký hợp đồng thực hiện TGPL; thực hiện trách nhiệm đăng tải công khai một số thông tin có liên quan theo quy định của Luật để cơ quan, tổ chức, cá nhân dễ dàng khai thác, tiếp cận và sử dụng.
6. Tập trung thực hiện vụ việc TGPL
Luật TGPL đi đúng bản chất đó là thực hiện các vụ việc nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL, chỉ thực hiện TGPL khi có vụ việc cụ thể. Hình thức thực hiện TGPL được quy định theo đúng bản chất và yêu cầu của công tác TGPL: Luật TGPL đã kế thừa Luật TGPL năm 2006 và quy định 03 hình thức TGPL, bao gồm: tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng mà không quy định “các hình thức TGPL khác” để tránh tình trạng lạm dụng, thực hiện dàn trải như trươc đây gây lãng phí nguồn lực dành cho TGPL mà không đạt được mục đích chính của TGPL là bảo vệ quyền lợi của người dân trong các vụ việc cụ thể. Luật cũng đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý là viên chức nhà nước tập trung thực hiện vụ việc tố tụng thông qua quy định Trợ giúp viên pháp lý không thực hiện vụ việc tham gia tố tụng trong thời gian 02 năm liên tục sẽ bị miễn nhiệm, trừ trường hợp do nguyên nhân khách quan.
7. Tạo thuận lợi hơn cho người được TGPL
Luật có nhiều quy định mới để tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận và sử dụng dịch vụ, như: Quy định phải công bố danh sách người thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL để người dân biết và thực hiện quyền lựa chọn của mình. Ngoài hình thức nộp đơn trực tiếp, gửi qua đường bưu điện, người dân có thể nộp đơn yêu cầu qua hình thức điện tử, fax để tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại; trong các tình huống cụ thể nếu gặp trường hợp cần được TGPL mà đối tượng có khó khăn không thể tự mình đến tổ chức thực hiện TGPL thì các tổ chức, cá nhân có thể thay mặt người được TGPL yêu cầu TGPL.
Luật TGPL năm 2017 quy định trường hợp thụ lý giải quyết ngay khi người yêu cầu chưa thể cung cấp hồ sơ theo quy định để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL, đó là các trường hợp vụ việc sắp hết thời hiệu, sắp đến ngày xét xử, hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người thuộc diện được TGPL có nguy cơ bị thiệt hại.
8. Tăng cường trách nhiệm của cơ quan, tổ chức đối với hoạt động TGPL
Luật TGPL bổ sung một số quy định nhằm tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức đối với hoạt động TGPL như sau:
- Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng phối hợp tạo điều kiện cho người được TGPL được hưởng quyền TGPL, tạo điều kiện cho người thực hiện TGPL tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Trong thời hạn 12 giờ kể từ thời điểm nhận được yêu cầu trợ giúp pháp lý của người bị bắt, người bị tạm giữ hoặc trong thời hạn 24 giờ kể từ thời điểm nhận được yêu cầu trợ giúp pháp lý của bị can, bị cáo, người bị hại là người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tại địa phương. Đây là những nội dung quan trọng trong bối cảnh Bộ luật Tố tụng hình sự quy định việc chỉ định người bào chữa mở rộng cho những bị can, bị cáo về tội có khung hình phạt là 20 năm tù thì số lượng vụ việc được giới thiệu từ cơ quan tiến hành tố tụng sang Trung tâm TGPL nhà nước sẽ tăng lên.
- Đối với các cơ quan nhà nước có liên quan, Luật quy định trong quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình nếu phát hiện công dân thuộc diện được TGPL, cơ quan nhà nước có trách nhiệm giải thích quyền được TGPL và giới thiệu đến tổ chức thực hiện TGPL.
- Quy định trách nhiệm các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức chủ quản của tổ chức tư vấn pháp luật trong hoạt động TGPL.
9. Sắp xếp, tinh gọn các Chi nhánh của Trung tâm TGPL của Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
Từ tổng kết thực tiễn thi hành Luật TGPL năm 2006, để phù hợp với Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, các quy định về Chi nhánh có sự điều chỉnh để bảo đảm tinh gọn tổ chức, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn nhân lực và kinh phí dành cho TGPL tại các địa phương. Chi nhánh đã được thành lập theo Luật TGPL năm 2006 sẽ được rà soát, sắp xếp lại, sáp nhập hoặc giải thể bảo đảm hiệu quả hoạt động. Trường hợp thực sự cần thiết để đáp ứng nhu cầu của nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập mới Chi nhánh. Điều kiện thành lập mới Chi nhánh được quy định chặt chẽ, theo đó, Chi nhánh chỉ được thành lập tại các huyện ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giao thông không thuận tiện đến Trung tâm TGPL nước, chưa có tổ chức hành nghề luật sư; tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL.
Ngoài các nội dung trên đây, Luật TGPL năm 2017 còn pháp điển hóa một số quy định trong các văn bản dưới luật trong Luật TGPL liên quan đến người thực hiện TGPL; tổ chức thực hiện TGPL lĩnh vực TGPL và hoạt động TGPL. Luật cũng chuẩn hóa quyền, nghĩa vụ của các chủ thể; sửa đổi, bổ sung nguyên tắc hoạt động TGPL; chính sách của Nhà nước về TGPL; không quy định Quỹ TGPL; bổ sung một số hành vi bị nghiêm cấm.